Đừng cho rằng hôm nay mình 'triết lý'..., mình không đủ trình độ để làm chuyện vĩ đại của nhân loại ấy đâu.
Thật ra, vì có cơ hội giáp mặt tiền bối, lại nghe anh kể chuyện lịch sử Phật giáo hay quá, nên mình cố ghi lại để nhớ sau này. Mà cũng vì hiểu biết quá sơ sài về đạo Phật, nên khi gặp được một người có nghiên cứu về Phật học là bọn mình tranh thủ hỏi ngay. Bậc 'cao nhân' ấy cũng cố gắng trả lời thật đơn giản để lũ ngốc bọn mình hiểu và nắm được phần cốt lõi nhất. Chỗ này phải cảm ơn anh thật nhiều!
... vì là ghi chép vội vàng, chắc chắn sẽ có nhiều sai sót lắm, nên mình hy vọng 'sư phụ' (từ đây gọi anh là Shi Fu) sẽ ghé mắt qua bài này của mình và sửa lại cho đúng hơn :)
Giác Ngộ là gì?
Giác là Thấy, Ngộ là Hiểu.
Cần phải thấy - hiểu điều gì? Chính là thông suốt 2 mảng: Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan.
Đạo Phật là gì?
Ai cũng nghĩ đạo Phật là đạo của Phật. Vậy Phật nghĩa là gì?
Đức Thích Ca khi sinh ra là 1 thái tử, tên là Siddarta. Đạo giáo đang phát triển lúc ấy là đạo Bà La Môn. Như bao người khác ngài cũng theo đạo này. Tuy nhiên, tất cả các sách giáo lý hay các nhà thông thái thời bấy giờ đều không thể trả lời 2 câu hỏi của ngài:
- Tôi từ đầu đến? Tôi đang làm gì? Tôi đi về đâu?
- Tại sao chúng sinh lại khổ Sinh - Lão - Bệnh - Tử?
Sau 49 ngày ngồi dưới gốc Bồ Đề suy nghĩ, ngài đạt được Tam Minh - cho mình đã giác ngộ. Ngài bèn rời gốc Bồ Đề và việc đầu tiên là đi cảm ơn những đứa trẻ chăn trâu ngày ngày vẫn đem cho ngài thức ăn thức uống. Mấy đứa trẻ thấy ngài liền hỏi:
- Ngài đã giác ngộ rồi sao?
- Ta đã giác ngộ.
- Chúng tôi gọi ngài là Ông Giác Ngộ được không?
- Được
Trong ngôn ngữ Sanskrit (tiếng Phạn), Giác Ngộ đọc có âm giống như Buddha. Tiếng Trung phiên âm thành Phật Đà. Và sang tiếng Việt thì được gọi tắt là Phật (trước còn gọi là Bụt).
Vậy Phật có nghĩa là Giác Ngộ. Học Phật để có thể hiểu về Nhân sinh và Vũ trụ. Tự trả lời được 2 câu hỏi trên như Phật và có thể giải thoát chính mình.
Ngũ Minh là gì?
Khi theo tôn giáo, người học đạo nên học và trở thành người có tri thức để không nghe và nhìn nhận tôn giáo ấy một cách mù quáng, u mê. Người theo tôn giáo có tri thức chính là người TỈNH THỨC. Vậy làm thế nào để thành một người có tri thức? Phật dạy về Ngũ Minh, trong đó:
- Nội Minh: biết về giáo lý. Giáo lý nhà phật là quán chiếu nội tâm - dạy cách nhìn vào trong tâm của chính mình
- Ngoại Minh: biết cuộc đời.
- Công Xảo Minh: biết Khoa Học Kỹ Thuật.
- Thanh Minh: biết phá bỏ tính phân biệt. Đạo Phật - theo 1 cách nào đó là 1 cuộc cách mạng. Tại Ấn Độ, khi đạo Phật ra đời đã xóa bỏ được sự phân biệt giai cấp. Đạo Phật quan niệm, tất cả mọi người đều có máu đỏ, đều có nước mắt mặn. Chúng sinh là như nhau.
- Dược Minh: biết về thuốc. Ai cũng có khỗ não và bệnh trong tâm - nên phải học cách chữa bệnh cho tâm.
Tam Giới là gì?
Chúng ta hay nghe câu 'Phật ở ngoài Tam Giới', hoặc câu 'chúng ta tu để thoát khỏi Tam giới'. Tam giới là gì mà phải thoát? Tam giới chính là:
- Dục giới: Đời sống vật chất
- Sắc Giới: Đời sống tình cảm, ái dục
- Vô Sắc giới: Về tư tưởng
Tu như thế nào là đúng?
Mục tiêu cuối cùng của đạo Phật là Giác Ngộ và đạt được Niết Bàn, hay còn gọi là giải thoát. Làm sao để tu đúng và đạt được giải thoát?
Trong xã hội, tựu chung có 2 dạng người: Cần tôn giáo và bất cần tôn giáo. Cần tôn giáo lại chia làm nhiều dạng. Riêng hàng Phật tử được chia thành 4 dạng người, mà anh Shi Fu gọi là 4 loại 'bụng':
- Người có đức tin: là người có bụng Tin vào Phật, chịu khó tu tập, tạo phước đức, tụng niệm và giữ giới... Làm mọi việc cầu mong được Phật gia hộ hoặc tích phước đức đầu tư cho kiếp sau.
- Tu tích cực: là người có bụng từ bi, giúp người đời, làm từ thiện ....
- Thích kỳ bí, thích huyền thuật: là những người có bụng tin vào phép màu nhiệm của đạo, cũng có thể là những người mà xưa chẳng có gì để mất - sau này có nhiều thứ muốn giữ nên cầu thần thánh trời phật gia hộ giữ giùm.
- Tin vào Giáo Lý: người hiểu và tin vào lý lẽ của đạo giáo.
Cách thứ tư, Tu theo bụng của Người tin vào Giáo Lý là cách tu đúng - có hiểu biết mới có khả năng đi đúng đường lối. Ba cách còn lại, Tu theo bụng của Người có đức tin, người tu tích cực, hày Người thích màu nhiệm chẳng qua chỉ là sự mưu cầu... mà còn mưu cầu là vẫn chưa thể thoát khỏi Tam giới hay đạt được giải thoát.
Sao gọi là Chân tu?
Người đến với đường tu cũng có 3 cách:
- Nghiệp tu: do nghiệp đưa đẩy, dù lòng chưa muốn, hoặc chưa có ý thức đi tu.
- Nghề tu: Xem tu là một nghề để kiếm tiền - thấy rõ nhất là những người đi cúng, đi tụng.
- Chân tu: là những người thực bụng muốn tu học.
Tiểu thừa, Đại Thừa, Kim Cang Thừa
Khi Đức Phật còn ở đời, không hề có sự phân biệt Tiểu, Trung hay Đại thừa (trên cả phương diện tông phái hay tư tưởng). Vì tùy trình độ của mọi người mà Ngài thuyết pháp có cạn sâu, cao thấp. Thính chúng khi nghe, tuy cùng nghe 1 giáo lý nhưng sự lĩnh hội lại rộng hẹp không đồng. Do đó mới nảy sinh phân biệt. Khi Phật nhập diệt, các tăng đoàn kết tập kinh điển của Phật, qua 4 lần kết tập nội bộ phát sinh sự phân hóa và chia rẽ sâu sắc về cách hiểu và hành trì các pháp môn của Phật. Tại lần tập kết thứ 4 thì sự phân biệt tranh đua đã đến mức không thể dung hòa. Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) và Phật Giáo Phát Triển bắt đầu song hành từ bối cảnh này và du truyền sang các nước khác . Khi đến Trung quốc thì Phật Giáo Phát Triển lớn dần và được phóng đại lên thành Phật giáo Đại thừa, với ngụ ý rằng chỉ những người tu theo đường lối này mới là những người tu theo Pháp lớn của Phật, còn những người tu theo Phật giáo nguyên thủy chỉ là tu theo những pháp nhỏ. Như vậy hai chữ Tiểu và Đại cũng chỉ là do con người đời sau tạo tác trong bối cảnh tâm lý thị phi, phân biệt, cạnh tranh, chê bai lẫn nhau, ai cũng muốn khoe rằng chỉ có pháp tu của tôi mới đúng, mới vĩ đại.
Thừa: có nghĩa là cỗ xe
- Tiểu thừa là cỗ xe nhỏ: Quan niệm Người tu Tiểu thừa học thấu đáo lý thuyết vạn pháp do nhân duyên sanh, thấu đáo chân lý chân không, tu hành tự lợi. Bên Phật giáo Nguyên thủy cho rằng chỉ có họ mới theo sát lời Phật, tu đúng gốc theo Pháp của Phật - chê bai Đại Thừa là tu ngọn.
- Đại Thừa là cỗ xe lớn: quan niệm rằng là giáo pháp dạy tất cả loài hữu tình thành Phật, điều cơ bản là nguyện độ khắp chúng sinh. Các chùa hay tùy tiện sử dụng 2 từ này ngầm ý khoe rằng tu theo đại thừa là tu pháp môn cao đẹp hơn.
- Kim Cang thừa: bắt nguồn từ Đại thừa, nhưng trường phái này lấy thêm những phương pháp tu học huyền bí, có tính chất mật truyền. Kinh sách Kim Cang Thừa trình bày nhiều phép tu luyện được gọi là Tantra, và hay sử dụng Chân Ngôn, có ảnh hưởng mạnh nhất tại các vùng Tây Tạng.
... Từ đó các tông pháp luôn chống báng lẫn nhau đến tận hôm nay chưa dung hòa được.
Tuy nhiên, nếu hiểu hai chữ Đại thừa như là một thước đo mức độ của tư tưởng hay trí tuệ thì lại khác. Bất kể là theo tu học theo tông phái nào, chúng ta đều có thể căn cứ theo mức độ tư duy, hiểu biết hay trí tuệ của mình mà nói là tu Đại thừa hay tu Tiểu thừa. Ví dụ: cũng là bài thuyết pháp đó của đức Phật mà chúng ta:
(1) hiểu theo nghĩa đen căn cứ vào bề mặt văn tự, câu cú thì đây được xem là tu học trên nền tư tưởng Tiểu thừa,
(2) còn học và hành theo nghĩa bóng ở mức độ sâu sắc, lắng đọng, chân thật nghĩa hơn thì có thể được gọi là tu trên nền tư tưởng Đại thừa.
Những vị tu theo cách (1) thì được gọi là tu theo “Tục đế”; các vị tu theo cách (2) được gọi là tu theo “Chân đế”.
Nam Tông, Bắc Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông, ...?
Khi Đức Phật còn ở đời, Phật giáo là duy nhất. Đạo Phật nguyên Thủy (Theravada) trước không có việc thắp nhang, tụng kinh, gõ mõ, cũng không có việc bùa ngải, chú niệm... Khi Phật nhập diệt, Phật giáo phân hóa, theo các ngả lưu truyền và hòa nhập vào đời sống của từng vùng miền khác nhau, từ đó sinh ra sự phân biệt về tông phái.
- Nam Tông: Từ Ấn Độ sang Srilanka, Mianmar, Thái Lan, Lào, Campuchia vào Việt Nam. Vì du nhập từ hướng Nam nên Người Việt gọi là Nam Tông cũng chính là Tiểu Thừa: tu theo Phật Giáo Nguyên Thủy - chỉ biết Phật Thích Ca, không công nhận có Bồ Tát... (do không truy tìm ra lịch sử và chứng tích của Bồ Tát). Tu Nam Tông được quyền ăn mặn, vì họ dùng không phân biệt các thức đồ dâng cúng.
-Bắc Tông: Từ Ấn Độ sang Trung Quốc vào Việt Nam. Vì du nhập từ phương bắc nên được gọi là Bắc Tông. Tu theo lối Đại Thừa. Vì Trung Quốc khi xưa theo đạo Khổng, đạo Nho, Đạo Lão, nên Đạo Phật cũng lấy những nét tương đồng để dễ hòa nhập. Từ đó sinh ra việc thắp nhang, gõ mõ, tụng kinh...
- Thiền Tông: Tu theo lối tọa Thiền do Bồ Đề Đạt Ma đưa vào Trung Quốc, kết hợp Phật giáo Đại thừa với đạo Lão. Thiền được chế tác nhằm giúp mở mang trí tuệ khi học Phật đạo.
- Tịnh Độ Tông: Phép tu của Tịnh độ tông chủ yếu là niệm danh hiệu Phật A-di-đà và quán tưởng Cực lạc. Mục đích của Tịnh Độ Tông là tu học để được thoát sinh tại Tây Phương Cực Lạc Tịnh Độ của Phật A Di Đà. Ba bộ kinh quan trọng của Tịnh Độ tông là: Vô Lượng Thọ Kinh, Kinh A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ Kinh.
- Mật Tông: Phật Giáo từ Ấn Độ du nhập sang Tibetan (Tây Tạng), Butan, Mông cổ... Tại các xứ sở này khi ấy đạo Bon đang rất thịnh. Đạo Bon là đạo Phù Thủy - chú trọng bùa chú, phù phép, thư ếm, tái sinh người chết ... Để 'get along well ', Đạo Phật cũng sử dụng các phương thức tương tự... . Mật Tông - Kim Cang Thừa công nhận có Bồ Tát và việc Tái Sinh. Người tu Mật Tông đến hàng tu-ku hoặc ri-bô-sê sẽ được tùy ý chọn nẻo tu theo Minh Triết hay theo Tantra. Dù cũng bắt nguồn từ đạo Phật, nhưng nhiều hội Phật Giáo không công nhận Mật Tông là đạo của Phật.
Vì sao gọi thời nay là Đời Mạt Pháp?
Pháp của Phật được gọi theo các thời khác nhau:
- Gọi là Chân Pháp: Khi đức Phật còn tại thế.
- Gọi là Tượng Pháp: Khi đức Phật mất và Pháp vẫn đang hưng thịnh.
- Gọi là Mạt pháp: tức là Phật Pháp sau này.
Học Phật khó mà dễ. Mình cứ tự thắp đuốc mà đi, dùng phương tiện là giáo lý để mở mang trí tuệ. Mình học để biết phải làm gì cho chính mình, sống giải thoát và đạt niết bàn ngay từ lúc này, ngay trong chính hiện tại cuộc sống. Mình cũng là Phật của chính mình, là thầy của chính mình.